Tranh Salvador Dali

XIN CHÀO CÁC BẠN ĐẾN VỚI BLOG PHẠM HỮU HOÀNG

Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013

HOANG TƯỞNG



Quán về khuya thưa khách, tôi ghé vào chọn một bàn trống bên cửa sổ. Cô tiếp viên tiến lại :
    - Anh dùng gì?
    - Một ly cà phê đen.
    Cô tiếp viên đi khuất sau quầy bán. Tôi đổi lại tư thế ngồi thoải mái. Mấy đêm nay, vào giờ này, tôi thường tới đây thư giãn ít phút. Tổng biên tập phân công tôi đến thị trấn Bình Giảng viết về vụ tiêu cực xảy ra tại công ty xây dựng X. Công việc hết sức căng thẳng. Ngày đi thu thập tư liệu, đêm cắm cúi viết. Tôi thích đến cái quán nhỏ này. Cảnh bài trí thật đơn sơ, vài chậu cây cảnh, mấy bóng đèn màu dịu dàng… Nhưng hấp dẫn với tôi ở chỗ những bài hát trữ tình từ giàn âm thanh tương đối tốt. Đây là những bài tôi yêu thích nhất hồi còn học trường cao đẳng sư phạm, quãng đời đáng nhớ của tôi. Bởi vậy, nhân một lần có việc đi ngang qua, tiếng nhạc dìu dịu ấy đã kéo tôi vào quán.
    - Sao ngồi một mình thế này?
    Tiếng phụ nữ nói rất gần. Một thiếu phụ tự nhiên kéo ghế ngồi trước mặt tôi. Cách ăn mặt kín đáo và nụ cười đôn hậu đã làm cảm giác bực bội vì sợ quấy rầy đường đột nhanh chóng tan biến. Người phụ nữ tôi đã thấy loáng thoáng mấy lần khi đến quán ấy.
 - Hình như cô là chủ quán? Tôi hỏi. Thiếu phụ gật đầu rồi lại cười:

    Ngỡ ngàng, tôi nhìn kỹ, ngờ ngợ… Nụ cười… Đôi mắt… Nét đẹp chưa tàn phai trên gương mặt qua tuổi xuân thì. Có thể nhầm lẫn được chăng? Tôi kêu lên.
    - Cẩm Chi ! Có phải là Cẩm Chi không? - Đàn ông mau quên thật, nhưng rất mừng anh vẫn còn nhận ra.


    - Cẩm Chi mở quán ở đây lúc nào? Đã ổn định cuộc sống ở thành phố rồi mà.    
    Lời tôi nói như vô tình chạm vào nỗi niềm thầm kín trong lòng. Cô lắc đầu, dáng vẻ ngao ngán:


    - Biết nói thế nào cho anh hiểu đây ! Số em lận đận thế nào ấy.
    Tôi và Cẩm Chi cùng học chung một lớp ở trường cao đẳng. Cách đây chừng hơn mười năm, vừa tốt nghiệp ra trường, chưa lên bục giảng, Cẩm Chi đã lên xe hoa với tay trưởng phòng văn hóa huyện. Đó là người đàn ông lịch lãm, hơn cô mười tuổi, kinh tế khá giả. Người chồng của Cẩm Chi chuyển công tác về tỉnh. Cô theo chồng về thành phố. Từ đó, tôi bặt tin cô…
    - Anh hiện sống thế nào? Em để ý thấy mấy đêm rồi, anh cứ đến quán ngồi một mình?
    Cẩm Chi nhìn tôi dò hỏi. Tôi nói về mình, dạy học vài năm, nhờ năng khiếu viết lách và được người quen giới thiệu chuyển về công tác ở tờ báo tỉnh.
   - Chỉ có tuổi đời ngày một nhiều thôi. Tôi đùa.
    Cẩm Chi cười gượng gạo:
   - Bây giờ em mới thấm thía cảnh sống một mình. Cuộc sống có bao giờ luôn theo ý mình mong muốn đâu. Tôi hiểu. Hồi đó, Cẩm Chi là hoa khôi khoa văn. Tôi quen thân với cô vì cùng trong đội văn nghệ trường.Tôi chơi đàn ghi ta. Còn Cẩm Chi vừa là người dẫn chương trình vừa là thành viên đội múa. Một lần, đội văn nghệ chuẩn bị tiết mục hội diễn chào mừng cách mạng tháng Mười Nga, Tôi và Cẩm Chi múa đôi bài tình ca trên sông von ga. Đến đêm công diễn, dù không xa lạ với ánh đèn sân khấu, tôi vẫn hồi hộp khi cùng Cẩm Chi bước ra sàn diễn. Tôi dìu cô bước theo điệu nhạc. Động tác múa của Cẩm Chi thật mềm mại, uyển chuyển. Thỉnh thoảng, Cẩm Chi ngước nhìn tôi với ánh mắt say đắm nồng nàn. Tôi như chơi vơi trong sóng mắt đắm đuối ấy. Loang láng trước mắt tôi dòng sông, cánh đồng, hoàng hôn… cả một thế giới huyền ảo, quyến rũ từ những giai điệu mượt mà và hương thơm thoang thoảng của cơ thể cô đang áp sát vào tôi. Bài múa kết thúc rồi, tôi vẫn còn luyến tiếc nhưng không muốn mất đi những giây phút kỳ diệu trong đời… Sau đêm hội diễn ấy, tôi trở thành con người khác hẳn. Thấp thỏm, hy vọng, lo âu, nghĩ ngợi mông lung… Ánh mắt của Cẩm Chi đêm đó đã dày vò tôi suốt năm học cuối cùng ở trường cao đẳng. Thế nhưng, tôi không thể thổ lộ với Cẩm Chi vì thái độ cô đối với tôi vẫn vui vẻ, thân mật, hòa nhã, không có biểu hiện gì khác lạ. Tốt nghiệp xong, chúng tôi cùng nhận quyết định phân công về huyện miền núi. Cẩm Chi trả quyết định. Cô về nhà ở thị trấn Bình Giảng. Lúc tôi thu xếp đồ đạc đến nơi công tác thì nhận được thiếp mời đám cưới của Cẩm Chi. Tôi đến dự. Trong trang phục cô dâu lộng lẫy, gương mặt Cẩm Chi rạng rỡ, đẹp như thiên thần. Tim tôi đau nhói khi biết rằng thiên thần ấy đã vĩnh viễn không bao giờ đến với cuộc đời tôi…
    - Em và anh ấy đã chia tay, Cẩm Chi nhỏ nhẹ nói, em về thị trấn mở cái quán này. Anh ấy không hợp với em. Nhưng… Chắc còn lý do sâu xa nào khác nữa. Trong lời của cô, tôi cảm nhận được cả sự xót xa, nuối tiếc. Cẩm Chi kể tiếp:
    - Anh biết không? Anh ấy đối xử với em cũng không tệ lắm chỉ có điều yêu một thứ thật say mê. Tiền bac, thời gian, công sức đều đổ hết vào đấy. Tôi không kềm được thắc mắc bởi một liên tưởng vội vàng:
    - Anh ấy sa vào các tệ nạn xã hội à?
    - Nếu như thế em chẳng có gì ân hận. Anh ấy vẫn đứng đắn, mẫu mực như hồi em mới quen. Nhưng, cái làm cho anh ấy mê say lại là các bức tượng, phù điêu, tranh ảnh… của nền văn hóa Chăm pa. Nhà em trưng bày đầy những thứ đó.Anh ấy bỏ việc nhà nước vì đề xuất một dự án nào đó về mỹ thuật Chăm pa nhưng không được cấp trên xét duyệt. Về nhà, anh ấy luôn buồn bã và thay đổi lối sống. Có lần, anh ấy vào cộng đồng người Chăm sống gần một năm. Em nhiều lần khuyên can nhưng anh ấy chỉ im lặng tiếp tục làm công việc của mình. Như bị mê hoặc, anh ấy bất chấp tất cả. Cuộc sống mỗi lúc một thêm khó khăn. Cho tới ngày em bị ốm nặng mà nhà chẳng còn lấy cắc bạc để mua gạo nấu. Rồi … Gặp gỡ tình cờ với Cẩm Chi, nghe được chuyện đời cô, tôi rất băn khoăn. Với Cẩm Chi, mơ ước chỉ dừng lại một cuộc sống gia đình bình thường, đầy đủ tiện nghi vật chất, an nhàn, không lo lắng nhiều. Cô đã thất vọng… Còn người chồng của cô? Quả thật, anh ta đã khơi gợi trí tò mò của tôi . Một con người kỳ lạ, hiếm thấy. Xong công việc tổng biên tập giao, theo địa chỉ Cẩm Chi đưa, tôi tìm đến nhà anh ta ở thành phố. Đó là căn nhà gác nhỏ nằm sâu trong một con hẻm. Tôi gõ cửa. Một người đàn ông thấp, đậm tóc lốm đốm bạc, gương mặt khắc khổ ra mở cửa.
    - Có phải anh là Tùng không? Người đàn ông lịch sự đáp:
    -Tôi là Tùng, xin lỗi cậu hỏi có việc gì? Đã có sự chuẩn bị từ trước, tôi nói:
    -Tôi tên Dũng, công tác ở tòa soạn báo tỉnh.Thế này anh à tôi dự định viết về sự xuống cấp của các tháp Chàm. Có người giới thiệu anh rất am tường lĩnh vực này. Nhờ anh giúp thêm tư liệu cho bài viết.
   - Mời cậu vào, người chủ nhà tỏ thái độ niềm nở, liệu xem thử giúp được gì cho cậu đây. Thật tình, từ câu chuyện với Cẩm Chi, tôi đã nảy sinh ý định viết về đề tài đã nói với Tùng. Căn phòng ngăn nắp, gọn gàng. Tùng loay hoay pha trà. Ngồi trên chiếc ghế tựa chỗ bàn nước kê ở góc phòng, tôi kín đáo quan sát. Đúng như Cẩm Chi nói. Ngay bức vách đối diện là các giá lớn lồng kính. Bên trong các ôđầy những pho tượng, những tấm phù điêu bằng đá có, gỗ có. Chỗ trống trên các bức tường còn lại đều có treo khung ảnh. Toàn là ảnh tháp Chàm được chụp nhiều góc độ. Tôi hỏi anh về lai lịch các tấm ảnh, Tùng đứng dậy, bước tới chỉ từng tấm ảnh, giọng say sưa giải thích:


    - Đây là ngôi đền đầu tiên của người Chăm ở Mỹ Sơn do vua Ba-dơ-ra-vac-man xây vào thế kỷ VII để thờ thần Xi-va. Kia là tháp Vàng, tháp Bạc, tháp Đồngđược xây từ thế kỷ XI.  Cậu thấy đấy, dáng vẫn đồ sộ, uy nghi nhưng đã mất đi cái duyên dáng đầy nhựa sống như ở Mỹ Sơn. Mấy cái tháp này thờ các vị thần ở Ấn Độ giáo như Xi-va, Xkănđa, Lanh Ga. Còn cái tháp mé bên kia hình dáng nặng nề song vẫn có vẻ đẹp riêng, tên tháp Pô-Kơ-Long-ga-rai có niên đại thế kỷ XIV. Tôi chỉ vào khung hình để trống treo ở vị trí trang trọng trong phòng hỏi :
    - Khung hình kia sao vẫn còn bỏ trống ?
   Tùng ngước nhìn rồi liền cúi mặt xuống. Ánh mắt linh hoạt bỗng trở nên buồn rười rượi. Giọng anh thật não nề:
    - Đó là khung hình để đặt tấm ảnh vợ chồng tôi chụp trong ngày cưới. Nhưng cô ấy đã bỏ đi rồi. Tôi lúng túng.
  - Xin lỗi anh, thật… tôi vô tình…
   Tùng không nói gì thêm nữa. Nét mặt đầy u uất.Thời gian sau, khi đã quen thân, tôi biết anh thường có những lúc trầm uất như thế. Anh như đắm mình vào cõi xa xôi nào đó quên cả người đối diện. Khi ấy, tôi thường ngồi lặng yên mà nghĩ ngợi không làm ảnh hưởng đến khoảnh khắc riêng tư cuả anh. Có lần, khi tôi vừa đến nhà, anh đem hai pho tượng đá hình vũ nữ đặt lên bàn, rồi nói:
    - Vương quốc Chămpa tồn tại mười hai thế kỷ. Trong ngần ấy thời gian, họ đã tạo ra một nền văn hóa đầy bản sắc, phong phú vô cùng, từ hệ thống đền tháp, âm nhạc, đến vũ điệu lễ hội… Cậu nhìn kỹ xem, đây là bức tượng vũ nữ Ấn Độ vì theo quan niệm về nhục cảm nên vú và mông đều phát triển khác thường. Tuy chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ nhưng tượng vũ nữ Chăm đây lại thể hiện sự sáng tạo độc đáo, giống người phụ nữ Chăm trong cuộc sống bình thường, gương mặt trái xoan, môi dày, mũi không cao.
   Nói những lời ấy, anh cứ nhìn chăm chắm vào điểm vô hình nào đó trong khoảng không trước mặt. Ánh mắt ngời lên niềm đam mê thánh thiện, tha thiết, chân thành. Tôi hỏi anh về các bức tượng:
   - Đây là những pho tượng anh mới sưu tầm phải không? Tùng cười hiền hậu:
   - Toàn là phiên bản do tay mình làm. Ngày trước, mình có học qua khoa điêu khắc. Cũng giống phải không cậu?
   Anh đưa tôi xem quyển sách có in hình hai pho tượng. Đúng là một tài hoa… Dần dần , tôi thấy ở Tùng có hai con người. Một con người kiến thức uyên bác hiểu biết sâu rộng cuộc sống và văn hóa người Chăm thời cổ xưa. Và một con người thứ hai với tâm hồn ủy mị, luôn mang tâm trạng tự lưu đày mình vào thứ thế giới chỉ còn trong tâm tưởng. Có lẽ, trong thế giới tưởng tượng đó, anh tìm được ý nghĩa sống cho riêng mình nên thường nói về nó bằng một tình cảm đeồng bóng không sao hiểu nổi. Bởi vậy, những điều anh nói với tôi có khi làm tôi không hình dung được, cứ vời vợi, mênh mông như một khao khát cháy bỏng chưa hề xảy ra ở nơi mặt đất này. Tôi biết trong cuộc sống cũng có không ít người không bằng lòng với hiện tại, tự huyền hoặc mình để rồi phí hoài cuộc đời trong thứ thế giới tưởng tượng, hoang đường. Nhiều lần, tôi muốn nói với Tùng nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu. Vâng, tôi muốn nói là cuộc sống của tôi, của bao nhiêu người khác nữa tuy vẫn còn quanh quẩn chuyện gia đình, cơm ăn, áo mặc và vẫn còn kia không ít nỗi trái ngang, nhưng đó là cuộc sống thật với tất cả giá trị của nó, cuộc sống mà anh gần như chối bỏ. Và một lần, tôi đã nói với anh tất cả những suy nghĩ đó. Tùng nhìn tôi, mỉm cười và hỏi:
    - Cậu muốn nói tôi là kẻ hoang tưởng ư ?
    Bất giác, tôi giật mình nhìn chiếc khung hình bỏ trống vẫn được đặt ở một nơi trang trọng trong căn phòng đầy những pho tượng, phù điêu và khung ảnh, những tháp Chàm cổ kính, uy nghiêm. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét