Tranh Salvador Dali

XIN CHÀO CÁC BẠN ĐẾN VỚI BLOG PHẠM HỮU HOÀNG

Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2014

THÁNG CHẠP VẮNG ANH


         Từ lúc anh rời bỏ cuộc chơi với bằng hữu ra đi mãi mãi, cuộc sống ồn ào, xô bồ vẫn trôi qua từng ngày theo nhịp bước thời gian. Những người bạn, người em của anh ngồi lại với nhau bên ly cà phê đắng, bên ly rượu cay nồng, trong một giây phút tĩnh lặng nào đó bất giác ai nấy đều có chung cảm giác, anh vẫn còn đâu đây. Gương mặt, lời nói, nụ cười khinh bạc của anh trước bao sự lố lăng của cuộc đời vẫn còn nguyên đó. Buổi chiều tan tầm, không ai còn thấy anh phơi phới râu tóc lái chiếc xe Hon Đa cũ kĩ xuôi trên con đường Lê Hồng Phong phường Bình Định. Nhưng giọng đọc ấm áp của anh trên đài truyền thanh thì với bạn nghe đài thị xã An Nhơn biết thuở nào quên. “ Bình Râu”, cái tên thật bình dị, quá đỗi thân thương với những người yêu mến anh. Một người chưa bao giờ cho mình là nghệ sĩ nhưng lại nghệ sĩ hơn biết bao kẻ tự xưng nhà nọ nhà kia…Một người luôn sống hết mình với bạn bè dù trong bạn bè không phải ai cũng cùng chung ý nghĩ. Một người luôn bao dung với thế hệ đi sau dù đôi lúc những đứa em  gây cho anh điều phiền muộn. Một người vào tận Sài Gòn đối mặt với nỗi đau đớn bởi căn bệnh hiểm nghèo nhưng vẫn canh cánh “ Nhành lan tím, góc sân quen” của quê hương máu thịt. Một người chưa bao giờ làm thơ để trở thành nhà thơ nhưng đã để lại trong lòng người những vần thơ xúc động. Một lối sống ngay thẳng, thủy chung, có trách nhiệm, anh như cây thông hát mãi khúc ru làm đẹp cho đời. Có nhũng người nói bao điều lớn lao nhưng rồi ra lại hóa thành tầm thường vô vị. Ngược lại, có những người sống lặng lẽ bình thường, nhưng khi mất đi, niềm thương tiếc trào dâng biết lúc nào phôi pha. Từ qui luật muôn đời ấy, có thể nhận ra, dù anh đã đi vào cõi vĩnh hằng nhưng một điều chắc chắn rằng, anh không bao giờ mất đi trong lòng bạn bè, người thân còn ở lại

                                                                                          
KHÔNG ĐỀ
Nhẹ như làn gió thoảng
lướt qua chốn phù hoa
còn chút hương để lại
với đời không phôi pha
một chút hương thanh khiết
sáng trong giữa đời thường
đẹp như tình bằng hữu
mãi mãi đến vô thường
                           P H H

Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2014

GÓC QUÊ ÊM ĐỀM



          Ông Hạn rất thích chơi cây cảnh. Thú chơi này đã thấm vào máu ông. Bởi vậy, từ lúc về hưu, ông luôn quẩn quanh bên những chậu cây cảnh trong vườn. Khi cùng bạn bè chén tạc chén thù, ai khơi đề tài này, ông rất hào hứng, nói không biết chán. Không ít lần ông nói như thể muốn chia sẻ niềm đam mê của mình mặc dù có lúc người nghe không có hứng thú muốn nghe. Vợ ông đã mất. Đứa con trai độc nhất là Lập Thành đang làm ở một công ty lớn trong Thành phố Hồ Chí Minh. Nó quyết chí lập nghiệp ở trong đó. Thỉnh thoảng, vợ chồng con cái đưa nhau về thăm ông vài hôm. Ông tự nhủ, Lập Thành đã trưởng thành, cứ để nó tự quyết định cuộc sống. Ông không buộc nó phải về ở với ông. Vợ nó mở cửa hàng bán đồ trang trí nội thất, thu nhập cũng khá. Lần về gần nhất, Lập Thành nói với ông :
        - Ba ở ngoài này, con không yên lòng. Tuổi già như ba cần có người chăm sóc. Khi tối lửa tắt đèn lỡ xảy ra chuyện gì, một mình ba thì biết làm sao ? Con tính thế này, ba vào ở với vợ chồng con. Con sẽ lo cho ba đầy đủ.
     Ông ầm ừ cho qua chuyện. Thằng con ông nó tính cũng phải. Tuổi già, ông không nương tựa vào nó thì trông chờ ai ? Ngặt nỗi, từ bỏ mảnh đất này để ra đi là điều ông không đành lòng. Một đời ông đã sống ở đây. Ông là trưởng tộc, có trách nhiệm lo cúng giỗ, trông coi mồ mả ông bà. Cả phần mộ người vợ hiền thảo một đời gắn bó. Còn bao nhiêu thứ khác nữa như những sợi dây vô hình níu kéo và ông không thể nào dứt bỏ dễ dàng. Ông nhìn ra vườn. Những chậu cây cảnh ông đã dày công chăm sóc. Đủ các loại : sanh, mai, bồ đề… đủ mọi dáng thế. Ông ghép cây sanh vào đá san hô tạo thành non bộ rồi đặt vào hồ nước nhỏ. Ông thả vào hồ các loại cá cảnh : chép Nhật, Trân Châu, hồng kiếm…Những chú cá bơi nhởn nhơ dưới làn nước trong veo trông thật thích mắt. Một dạo, sốt giá cây sanh, thương lái vào vườn nhà ông. Với con mắt nhà nghề, họ quan sát, săm soi từng chậu, rồi dừng lại mấy chậu ông quý nhất. Có chậu ông cắc ca cắc củm làm đất trồng từ lúc còn cây con cả chục năm trước. Họ chộn rộn ra giá.
         - Bao nhiêu ? Ông phát đi. Tụi này còn tính.
      Tiền thì cần thật đấy. Nhưng… sau một lúc đắn đo, ông đáp :
          - Để tôi coi lại đã, khi nào bán tôi sẽ gọi.
          - Nhanh nghe. Đây, số điện thoại. Tụi này chờ. Để chậm rớt giá, chừng ấy tha hồ tiếc.
      Lúc nhậu lai rai, biết chuyện, bạn ông có người khuyên nên bán đi vài chậu kiếm ít tiền dưỡng già. Ông uống cạn ly rượu, giọng khề khà :
         - Nghĩ cho cùng, cây cũng như người, càng gần gũi, càng gắn bó. Yêu cây không chỉ vì cây đẹp, mà nó như một tri kỉ. Bán đi là mất. Tiếc quá ! Thôi, thà sống chật vật một chút, như từ trước tới giờ cũng có sao đâu.
 
     Có người  bảo ông hâm, gàn dở. Ông không trách. Chín người mười ý. Trước kia ông dạy tiểu học. Niềm vui của ông gắn với các em học sinh, với đồng nghiệp, trường lớp. Hồi ấy, đồng lương ít ỏi, ông phải cật lực làm thêm đủ việc để nuôi Lập Thành đến ngày tốt nghiệp đại học. Lập Thành  học hành chăm chỉ,  cần cù chịu khó, không phụ công khó nhọc của ông. Bây giờ, đã thư thả, ông tìm niềm vui ở một góc quê với công việc tưới cây, tỉa cành, trừ sâu… Đồng lương hưu đủ hai bữa cơm đạm bạc sống qua ngày.
    Buổi tối hôm đó, như thường lệ, cơm nước xong, ông lên võng nằm coi truyền hình. Hết chương trình thời sự địa phương, ông tắt máy đi ngủ sớm. Nằm chưa yên trên giường, bỗng nhiên ruột ông quặn đau, từng cơn nối tiếp. Ông cố gượng lại chỗ tủ thuốc gia đình, lấy mấy viên thuốc uống rồi lấy chai dầu gió xoa khắp vùng bụng. Cơn đau càng lúc càng tăng. Ông lăn lộn, quằn quại. Chưa bao giờ ông đau như thế này. Trời mỗi lúc một  khuya. Chừng không chịu nỗi nữa, ông rút cái điện thoại di động bấm số người em ruột tên Bàng ở gần đó. Tiếng đầu dây bên kia. Ông lắp bắp : “ Chú qua…gấp. Anh đau…quá…”. Mặt mày xây xẩm… Chiếc điện thoại rơi xuống gối…
      Mở mắt ra, Ông quan sát chung quanh. Lạ lẫm. Phòng cấp cứu bệnh viện. Giường ra trắng toát. Các cô điều dưỡng đẩy xe thuốc đến các giường bệnh. Một thiếu phụ ngồi trên chiếc ghế nhựa đỏ mé chân giường khẽ kêu lên :
        - Ba…ba tỉnh rồi. Con lo quá.
     Nhận ra con dâu giữa lố nhố bóng người, ông thều thào hỏi :
- Con về hồi nào ?
     Người con dâu kéo ghế lại gần ông hơn, nhỏ nhẹ :  
- Chiều hôm qua ba ạ.
- Con đi bằng gì ?
- Con đi máy bay. May mà có chuyến bay trong ngày.
- Ba nằm viện bao lâu rồi ?
- Ba đã nằm hai ngày đêm.
- Chồng con có về không ?
- Dạ, ảnh mắc việc công ty, sẽ thu xếp về sau.
        - Ba đỡ rồi. Con điện cho nó khỏi về cũng được. Để nó lo công việc. À ! Bác sĩ bảo ba bệnh gì ?
     Người con dâu cầm bệnh án treo ở đầu giường đưa cho ông xem. Ông đọc lướt qua : ngộ độc thức ăn, cao huyết áp, máu nhiễm mỡ. Ông thở dài. Tuổi già,  khám ra thì đủ bệnh. Biết làm thế nào được. Tội cho con dâu, phải nghỉ việc buôn bán về lo cho ông. Khi sức khỏe ông đã khá hơn, tự lo liệu được, ông bảo  con dâu về được rồi. Về còn trông coi cửa hàng. Bỏ lâu không tiện. Trước khi đi, người con dâu nài nỉ :
        - Ba nghĩ coi. Trẻ cậy cha, già cậy con. Bệnh của ba phải điều trị dài ngày, sống một mình, ba sẽ xoay sở như thế nào ?
     Thằng con ông lại gọi điện về thúc giục ông luôn. Trận đau bất ngờ vừa rồi và diễn biến bệnh tình làm cho ông không còn sự lựa chọn nào khác. Ông phải theo lời con. Nhưng trước khi đi, ông phải làm cho xong hai việc. Một là ông sẽ tháo dỡ gian nhà trên vốn đã ọp ẹp, xuống cấp để xây lại thành nhà từ đường khang trang tiện việc hương khói ông bà. Thế hệ sau có nơi nối tiếp công việc thờ tự. Hai là gửi nhà cửa, vườn tược cho người em trông nom để có chỗ ông quay về lúc lễ tết, giỗ chạp. Việc thứ hai ông dễ thu xếp ổn thỏa. Nhà chú Bàng chật chội, con đông, con trai lập gia đình vẫn ở chung với cha mẹ vì chưa có điều kiện ra riêng. Ông đề nghị chắc sẽ được chấp thuận. Nhưng muốn làm việc thứ nhất thì phải có tiền. Số tiền ông gom góp, dành dụm khi nay không đủ cho chi phí đó. Có lần, Lập Thành nói với ông, ba có khó khăn gì, cứ bảo con. Ông để ngoài tai vì đinh ninh cuộc sống mình cũng tạm đủ. Nhưng giờ ông phải nhờ nó giúp thực hiện ý nguyện của mình. Mà vấn đề tế nhị đó, ông không thể nói qua điện thoại được. Ông vào thành phố gặp trực tiếp nó thì hơn. Vừa thăm con cháu, vừa nhân tiện coi cái chỗ ông sẽ gắn bó với phần đời còn lại như thế nào. Trước kia, ông cũng đã mấy lần vào đấy, ngày vợ chồng Lập Thành về nhà mới. Rồi thôi nôi cháu nội… Những lần ấy, dù ở nhà con nhưng ông có cảm giác của một người khách trọ.