Tranh Salvador Dali
Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013
THƠ ĐÀO VIẾT BỬU
Những trưa chim gù
Chim gù chùng võng mẹ đưa
Mái tre vọng tiếng cũng vừa lay nghiêng
Hời ơi! Đâu giấc bình yên
Thương con se sẻ ngoài hiên chàng ràng
Giờ qua giậu duối chín vàng
Ai ngờ bụi ớt đứng bàng hoàng cay.
Thứ Tư, 20 tháng 2, 2013
CHỮ NGHĨA
Quan
đốc học Cả Nghị dù đang cận ngày sát hạch học trò, chuẩn bị cho kì thi hương,
vẫn sắp xếp công việc về làng Nam Hạ dự hội. Ngày hội năm nay có lễ rước thần.
Vị thần tên Khiết, đỗ cử nhân, đến Nam Hạ mở trường dạy học. Đức độ, tài hoa của
thầy Khiết nổi tiếng một vùng. Học trò cả tam Nam: Nam Hạ, Nam Trung, Nam
Thượng; lục Ngãi: Ngãi Nam, Ngãi Bắc, Ngãi Tây… theo học rất đông. Bấy giờ, có
tên Thậm, chánh tổng làng Ngãi Bắc, ngang ngược, gian ác. Hắn giàu tới mức chỉ
riêng ruộng đất có tới hàng mấy trăm mẫu. Hắn cầu thầy địa lý giỏi dò long mạch,
tìm chỗ đất tốt đào huyệt táng hài cốt cha hắn để mong vinh hoa, phú quí hơn.
Xem xét hết đồng nọ, gò kia, thầy điạ lý chọn được thửa đất mới vỡ hoang của
một người dân Nam Hạ. Hắn dùng thủ đoạn chiếm đoạt thửa đất ấy. Thầy Khiết giúp
người bị ức hiếp làm đơn kiện lên quan. Vụ kiện thất bại. Ít lâu sau, thầy đi
thăm người bạn ở làng bên về, đám tay chân của tên Thậm chận đường gây sự đánh
thầy đến chết. Thầy chưa vợ, không họ hàng thân thuộc. Cả Nghị cùng với các bạn
đồng học lặng lẽ mai táng thầy trên một gò đất cao. Vụ án gây xôn xao một lúc
rồi cũng bị quan trên dìm đi. Người làng không dám ho he nhưng ngậm ngùi thương
tiếc. Họ đem bài vị thầy vào thờ trong đình như một vị thần làng. Hằng năm, nhằm
vào ngày thầy qua đời, dân làng mở hội tại bãi đất rộng trước đình…Về
dự hội còn là dịp Cả Nghị gặp lại các bằng hữu ở làng. Những người sống đạm bạc
với ruộng vườn, vui cùng cây cảnh, thơ phú. Ngày hội đã tàn. Người dự hội về
hết. Ông thủ từ trải chiếc chiếu ra giữa sân đình. Cả Nghị và bằng hữu tiếp tục
đối ẩm, luận bàn chuyện văn chương, thế sự... Cao hứng, Cả Nghị ứng khẩu ngâm
mấy câu thơ: Bằng hữu tâm giao lưu vạn thuở. Chung đầy xin cạn men
tình say. Ông Nhị Trần, người lớn tuổi nhất, từng trải
việc đời cầm ly rượu nói:
-
Ý thơ Cả Nghị như tạc vào đá. Công danh chỉ là giấc phù hoa, đời người như bóng
câu, mới đó mà điểm bạc mái đầu. Vì tình bằng hữu mãi mãi, ta cùng uống cạn
chung này.
Mọi
người hưởng ứng nâng cao ly rượu… Trời về khuya. Trăng chênh chếch trời tây. Cả
Nghị đã ngà ngà say. Người thủ từ dìu ông vào đình, đỡ nằm trên cái phản gụ kê ở
góc phải nhà ngoài. Tiếng cười nói ngoài sân im ắng dần. Lúc này, Cả Nghị nghe
vọng vào những âm thanh thân thiết của tiếng ếch ngoài đồng cùng với tiếng chim
bay đêm xào xạc trên các tán lá cây. Ông thoáng nhớ lại thời ấu thơ cùng đám bạn
nhỏ bẩy chim hoặc lội bì bõm trên các con mương làng úp cá…Tháng ngày đèn sách ở
nhà thầy…Rồi giây phút hồi hộp nghe xướng tên tiến sĩ, được mặc triều phục làm
lễ tạ ơn vua… Cả Nghị trở mình trên tấm phản, ông nhớ tới chữ
nghĩa trên tấm biển của bằng hữu ở quê tặng trong ngày
vinh qui bái tổ…
Những nét chữ cẩn xà cừ óng ánh. Khi được triều đình bổ nhiệm
chức quan đốc học tỉnh, ông dời nhà vào thành cho tiện việc quan. Ông mang theo
tấm biển treo trên bức vách trong thư phòng. Bước vào hoạn lộ, mấy mươi năm nếm
đủ mùi vinh nhục... Mỗi lần mỏi mệt, nhìn tấm biển, lòng ông thường ấm lại… Ánh
trăng gầy guộc nhuốm vàng khoảng sân trước đình…Vài chiếc lá xào xạc trên thềm…
Gió thoảng lành lạnh… Ánh sáng ngọn nến leo lét… Bỗng một người mặc áo dài khăn
đóng tiến vào. Thấy rõ mặt, Cả Nghị vội tụt ngay xuống phản, vòng tay thi lễ.
Miệng ấp úng:
- Con chào thầy.
VÔ ĐỀ
Thân tặng Vĩnh Bình
Nhẹ như làn gió thoảng
lướt qua chốn phù hoa
còn chút hương để lại
với đời không phôi pha
một chút hương thanh khiết
sáng trong giữa đời thường
đẹp như tình bằng hữu
mãi mãi đến vô thường
Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013
THẰNG NGẬT
Không biết từ lúc nào, ở làng Nam Hạ lưu truyền câu
đồng dao “ Thằng Ngật mà gật cái đầu. Cả trời Nam Hạ lệ sầu chứa chan.” Câu hát
ấy, thuở ấu thơ tôi đã từng hát khi cùng đám bạn nhỏ quần đùi, chân đất chăn bò
trên một cái gò lớn đầu làng. Cuối gò, chỗ tiếp giáp dòng sông có một mô đất
cao. Đầu mô đất có một cái bia khắc chữ Hớn. Cái bia ấy mới phục hồi lại, vì hồi
chiến tranh, bom đạn cày xới chỉ còn cái đế bằng đá ong lởm chởm. Qua lời kể của
các bậc cao niên, đây là nấm mộ của cử nhân Dương Điền. Cái chết Dương Điền có
liên quan đến câu đồng dao mà không đứa trẻ nào lớn lên ở Nam Hạ lại không
thuộc.
Tôi đến từ đường họ Dương. Đó là một ngôi nhà cổ lá mái ba gian, nằm lọt thỏm
trong khu vườn rộng cây lá um tùm. Người giữ từ đường là cụ Dương Nguyễn. Cụ
tiếp tôi rất niềm nở. Cụ mời tôi ngồi trên tấm phản gỗ mun kê bên trái gian nhà
thờ. Bàn thờ sạch bóng đặt nhiều bài vị theo thứ bậc. Tôi biết cụ từ lâu, trong
các ngày tế lễ ở làng cụ thường được chọn là người tế chủ. Nhưng do cách biệt về
tuổi tác, do bận rộn việc mưu sinh, tôi phải rày đây mai đó nên chưa có dịp nào
cùng với cụ chuyện trò với nhau. Cụ Dương Nguyễn là người xuề xòa, dễ tính. Cụ
rót nước trà vào hai cái tách bằng sứ để trên cái khay gỗ cẩn xà cừ, rồi vừa mời
tôi, vừa cầm một tách kề lên miệng nhấp một ngụm. Chờ cụ đặt tách trà xuống
khay, tôi gợi chuyện. Cụ có vẻ hào hứng khi kể về những sự việc xảy ra cách đây
hàng trăm năm ở làng. Những sự việc mà chỉ có người cả đời gắn bó máu thịt với
làng như cụ mới lưu giữ mãi trong tâm khảm. Tôi hỏi về cử nhân Dương Điền, cụ
nhỏ nhẹ :
HOANG TƯỞNG
Quán
về khuya thưa khách, tôi ghé vào chọn một bàn trống bên cửa sổ. Cô tiếp viên
tiến lại :
- Anh dùng gì?
- Một ly cà phê đen.
Cô tiếp viên đi khuất sau quầy bán. Tôi đổi lại tư thế ngồi thoải mái. Mấy đêm
nay, vào giờ này, tôi thường tới đây thư giãn ít phút. Tổng biên tập phân công
tôi đến thị trấn Bình Giảng viết về vụ tiêu cực xảy ra tại công ty xây dựng X.
Công việc hết sức căng thẳng. Ngày đi thu thập tư liệu, đêm cắm cúi viết. Tôi
thích đến cái quán nhỏ này. Cảnh bài trí thật đơn sơ, vài chậu cây cảnh, mấy
bóng đèn màu dịu dàng… Nhưng hấp dẫn với tôi ở chỗ những bài hát trữ tình từ
giàn âm thanh tương đối tốt. Đây là những bài tôi yêu thích nhất hồi còn học
trường cao đẳng sư phạm, quãng đời đáng nhớ của tôi. Bởi vậy, nhân một lần có
việc đi ngang qua, tiếng nhạc dìu dịu ấy đã kéo tôi vào quán.
- Sao ngồi một mình thế này?
Tiếng phụ nữ nói rất gần. Một thiếu phụ tự nhiên kéo ghế ngồi trước mặt tôi.
Cách ăn mặt kín đáo và nụ cười đôn hậu đã làm cảm giác bực bội vì sợ quấy rầy
đường đột nhanh chóng tan biến. Người phụ nữ tôi đã thấy loáng thoáng mấy lần
khi đến quán ấy.
-
Hình như cô là chủ quán? Tôi hỏi. Thiếu phụ gật đầu rồi lại cười:
Ngỡ ngàng, tôi nhìn kỹ, ngờ ngợ… Nụ cười… Đôi mắt… Nét đẹp chưa tàn phai trên
gương mặt qua tuổi xuân thì. Có thể nhầm lẫn được chăng? Tôi kêu lên.
- Cẩm Chi ! Có phải là Cẩm Chi không? - Đàn ông mau quên thật, nhưng rất mừng
anh vẫn còn nhận ra.
- Cẩm Chi mở quán ở đây lúc nào? Đã ổn định cuộc sống ở thành phố rồi mà.
Lời tôi nói như vô tình chạm vào nỗi niềm thầm kín trong lòng. Cô lắc đầu, dáng
vẻ ngao ngán:
Thứ Hai, 18 tháng 2, 2013
TRỐNG VẮNG
Những vần thơ bạn hữu được Vĩnh Bình viết gửi về từ Sài Gòn, có đọc mới thêm hiểu về anh trong những ngày xa xứ
Đã mấy hôm rồi con chim sẻ không đến đậu trước hiên nhà gọi bạn.
Vạt nắng sớm mai cũng qua mau lòng ta thêm trống vắng.
Bay về đâu hõi chim ?
Vội vàng chi hỡi nắng ?
Cho mùa thu phôi pha.
Cho Chiều vàng trút lá.
Ta một mình đong đếm những vui buồn khi trời đã sang đông.
MỘT THỜI ĐỂ NHỚ
Trong
cuộc đời của mỗi con người, ai cũng có những kỉ niệm đẹp lưu giữ mãi trong lòng
. Với chúng tôi, ba năm đèn sách dưới mái trường trung học phổ thông An Nhơn 1
đã để lại bao nhiêu kỉ niệm không thể mờ phai. Và cũng chính từ mái trường thân
yêu này, một ngày mùa hè năm 1979, chúng tôi chia tay nhau, tạm biệt thầy cô
giáo, tạm biệt mái trường, bỏ lại phía sau cái thời tuổi trẻ hồn nhiên vụng dại
để bước vào cuộc đời rộng lớn. Từ đó, mỗi người một phương lo tạo dựng sự
nghiệp. Người ra Bắc, kẻ vào Nam, người lên Tây Nguyên, người đi du học nước
ngoài…Cũng có người gắn bó với quê nhà với nhiều ngành nghề khác nhau. Nhưng
chúng tôi vẫn hướng về mái trường xưa với một tình cảm thân thương.
Còn nhớ, thế hệ cựu học sinh 79 bước vào trường năm 1976, một năm sau ngày miền
nam được giải phóng. Cả huyện An Nhơn bấy giờ chỉ có một trường trung học phổ
thông duy nhất. Bởi vậy, bạn học cùng lớp ở rải khắp các xã, thị trấn trên địa
bàn huyện. Có đứa ở khu đông Nhơn Hạnh, Nhơn Phong ; có đứa ở cánh tây Nhơn
Phúc, Nhơn Lộc; có người ở cánh bắc Nhơn Thành, Đập Đá… Đây là thời điểm đất
nước vừa trải qua cuộc chiến tranh ác liệt kéo dài, lại thêm thời bao cấp đầy
khó khăn. Ngày ấy, hầu hết chúng tôi đến trường trên những chiếc xe đạp cà tàng.
Áo quần may bằng thứ vải rẻ tiền được phân phối theo tiêu chuẩn xã viên hợp tác
xã hoặc tem phiếu cán bộ công nhân viên nhà nước. Trường lớp tuềnh toàng, sách
vở thiếu thốn, cả tổ chỉ có vài bộ sách giáo khoa cũ mượn ở thư viện, chuyền tay
nhau mà đọc. Thời chúng tôi học chưa có công nghệ thông tin hiện đại, không biết
game online, không phim ảnh Hàn Quốc, không hát karaoke…Nhưng chúng tôi có cả
một tình yêu và lẽ sống cao cả. Yêu trường, yêu lớp, yêu quí bạn bè, cả những
mối tình ngây thơ, trong sáng tuổi học trò, yêu kính thầy cô giáo tuy cuộc sống
quá đạm bạc nhưng vẫn hết lòng tận tụy với học sinh …
Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2013
LŨ MUỘN
Ông Tự uể oải vươn vai một cái rồi chậm rãi đi qua cửa nhà chòi ra bãi cát mé sông. Cát nóng bỏng lạo xạo dưới bàn chân trần. Ông lội xuống dòng nước chảy lờ đờ, tới chỗ ngang ống quyển, khom người chúm hai bàn tay vục một bụm nước úp vào mặt. Rồi một bụm nữa. Nước nhỏ giọt trên chòm râu, nhỏ xuống bộ ngực trần đen đúa, xương xẩu. Nước mát làm ông thấy khoan khoái. Ông ngước nhìn lên phía tây, nơi có những ngọn núi xanh thẳm, lững lờ chòm mây trắng, miệng lẩm bẩm :
- Qua tiết lập đông rồi mà chẳng thấy động tĩnh gì. Chừng nào ông trời mới chịu đổ nước về.
Ông vừa lểu thểu về chòi vừa nghĩ tới bữa cơm chiều. Cả tháng nay ông phải chắt chiu, tính toán từng bữa ăn, sao cho cầm cự tới khi lũ về. Nước cạn kiệt. Trên khúc sông quen thuộc, ban ngày, ông thả lưới, quăng chài, lặn bắn miệt mài, ban đêm, bơi sõng đi soi đến bét mắt mà vẫn không đủ đắp đổi bữa ăn. Con sông ngày càng ít cá. Đã vậy, có kẻ còn dùng xung điện. Rồi thuốc cỏ, thuốc trừ sâu từ các chân ruộng chảy xuống. Con cá nào sống sót, trốn bặt vào hang, hốc trong các hầm chảo gai góc…
Ông Tự mong lũ đến mỏi con mắt. Vì khi lũ về, cá tràu, rô, trê … trồi ra vẫy vùng. Lại thêm cá trôi, diếc, chép, mương, chốt…ở các lòng hồ, khe suối chốn đại ngàn xuôi theo con nước bạc. Cá ở vùng hạ bạn ngược dòng... Chỉ cần nhìn luồng nước chảy, chọn vị trí thả nhá kéo, có khi, chỉ một lát, lờ cá đã đầy nóc. Nước rặt là mùa thu hoạch. Tha hồ bủa lưới. Cá no mồi béo núc. Tối đến, chỉ cần một trận mưa, ếch giao hoan kêu ồm ộp khắp cánh đồng. Chịu khó đội đèn bin đi soi một chặp, cũng kiếm được kha khá.
- Qua tiết lập đông rồi mà chẳng thấy động tĩnh gì. Chừng nào ông trời mới chịu đổ nước về.
Ông vừa lểu thểu về chòi vừa nghĩ tới bữa cơm chiều. Cả tháng nay ông phải chắt chiu, tính toán từng bữa ăn, sao cho cầm cự tới khi lũ về. Nước cạn kiệt. Trên khúc sông quen thuộc, ban ngày, ông thả lưới, quăng chài, lặn bắn miệt mài, ban đêm, bơi sõng đi soi đến bét mắt mà vẫn không đủ đắp đổi bữa ăn. Con sông ngày càng ít cá. Đã vậy, có kẻ còn dùng xung điện. Rồi thuốc cỏ, thuốc trừ sâu từ các chân ruộng chảy xuống. Con cá nào sống sót, trốn bặt vào hang, hốc trong các hầm chảo gai góc…
Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013
GÓC QUÊ ÊM ĐỀM
Ông Hạn rất thích chơi cây cảnh. Thú chơi này đã thấm vào máu ông. Bởi vậy, từ lúc về hưu, ông luôn quẩn quanh bên những chậu cây cảnh trong vườn. Khi cùng bạn bè chén tạc chén thù, ai khơi đề tài này, ông rất hào hứng, nói không biết chán. Không ít lần ông nói như thể muốn chia sẻ niềm đam mê của mình mặc dù có lúc người nghe không có hứng thú muốn nghe. Vợ ông đã mất. Đứa con trai độc nhất là Lập Thành đang làm ở một công ty lớn trong Thành phố Hồ Chí Minh. Nó quyết chí lập nghiệp ở trong đó. Thỉnh thoảng, vợ chồng con cái đưa nhau về thăm ông vài hôm. Ông tự nhủ, Lập Thành đã trưởng thành, cứ để nó tự quyết định cuộc sống. Ông không buộc nó phải về ở với ông. Vợ nó mở cửa hàng bán đồ trang trí nội thất, thu nhập cũng khá. Lần về gần nhất, Lập Thành nói với ông :
- Ba ở ngoài này, con không yên lòng. Tuổi già như ba cần có người chăm sóc. Khi tối lửa tắt đèn lỡ xảy ra chuyện gì, một mình ba thì biết làm sao ? Con tính thế này, ba vào ở với vợ chồng con. Con sẽ lo cho ba đầy đủ.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)