Tranh Salvador Dali

XIN CHÀO CÁC BẠN ĐẾN VỚI BLOG PHẠM HỮU HOÀNG

Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

THẾ GIỚI NÀY LÀ CỦA CON

      
      Trần dừng chiếc xe máy. Anh bật chân chống dựng xe rồi bước lại chỗ cánh cổng gọi với vào. Bé Anh Thư cầm xâu chìa khóa chạy lon ton ra mở cổng, miệng reo lên:  
“ Ba về! Ba về!” Cánh cổng mở ra. Nó đứng tránh sang một bên, bàn tay trái nắm chặt ngón trỏ tay phải, má phụng phịu. Không chú ý đến con bé, Trần dắt xe đi luôn vào nhà. Chừng như đã quen với cảnh này, nó khép cổng, đi vòng ra cửa mé hông nhà sau. Trần vào phòng làm việc, đặt cái cặp lên bàn rồi trở ra phòng khách ngồi phịch xuống ghế. Anh đang căng đầu bởi chuyện cơ quan. Mệt quá. Ông trưởng phòng sắp về hưu. Ông ta ngồi cái ghế này đã thâm niên, từ lúc còn là ghế gỗ cho đến cái ghế nệm xoay, khi mỏi, có thể duổi người một cách thoải mái. Trong lúc chờ nhận sổ hưu, công việc của phòng, ông giao cho Trần, phó phòng xử lí. Cũng như bao nhiêu người sắp hạ cánh khác, đến cơ quan, phần lớn thời gian, ông đọc báo, nói chuyện phiếm, tâm tình với các đồng nghiệp, hoặc cắt tỉa mấy chậu cây cảnh đặt nhờ trên khoảng sân rộng phía trước…Không ít kẻ muốn ngồi vào chiếc ghế trưởng phòng đó. Những cuộc vận động, đi đêm…Cấp trên để mắt tới Trần. Liền có kẻ giấu mặt tung tin nói xấu, bịa đặt, bới móc đủ thứ, lôi cả chuyện đời tư của anh tung lên mạng internet... Trần chép miệng, lắc đầu ngao ngán. Lan, vợ anh, từ nhà dưới bước lên dịu dàng hỏi:
     - Nghĩ gì mà anh thừ người ra vậy?  
     - Không có gì đâu, chuyện vặt cơ quan.     
     - Em dọn cơm xong rồi. Anh xuống ăn cho nóng.
    Trần uể oải theo vợ xuống phòng ăn. Anh ngồi vào bàn, cầm đũa. Bé Anh Thư ngồi ở ghế đối diện.
    - Bữa nay, em có mua món chả thủ anh thích đấy.
     Lan gắp lát chả bỏ vào chén Trần:
    - Anh ăn cơm đi.
      Cô gắp thức ăn bỏ vào chén cho bé Anh Thư. Con bé ngước nhìn Trần, thấy anh không chú ý, nó bưng chén cơm ăn lấy ăn để.
    Trần và cho hết chén cơm rồi bỏ đũa xuống mâm.
    - Anh không ăn nữa à? Lan hỏi:
    - Trong người mệt, ăn không nổi.
   Anh Thư cũng ăn xong chén cơm của mình. Nó để chén vào mâm.  
    - Con ăn thêm một chén nữa nghen, Lan vỗ về.
    - Con no rồi.
   Con bé đứng dậy đi về phòng mình. Chợt có tiếng trẻ con oa oa khóc.Tiếng khóc của Huyền My. Lan vội đi vào buồng dỗ con bé. “ Con ngoan, nín đi! Má thương!”. Trần lại chỗ chiếc võng nặng nề gieo mình xuống. Buổi trưa ngày hè thật nóng nực. Tháng tám nám trái bưởi có phải. Cái nóng hầm hập, ngột ngạt như thiêu đốt mọi thứ. Trần trở mình trên chiếc võng. Tiếng quạt gió sè sè và tiếng võng đưa kẽo kẹt như lạc lỏng giữa bốn bức tường bức bối. Trần vắt tay lên trán nghĩ ngợi. Bảy năm trước, Trần tốt nghiệp đại học ngành tài chính kế toán. Anh tìm việc làm khó như lên rừng tìm trầm. Ai giới thiệu cũng đi. Hễ có manh mối thì tới. Đi mòn đàng chết cỏ rốt cuộc cũng chỉ uổng công. Lại còn gặp cảnh trớ trêu. Có lần, xem báo, anh biết công ty nọ tuyển thư kí. Sợ chậm trễ, anh tức tốc cầm hồ sơ đến nộp. Vị cán bộ phòng nhân sự gương mặt béo xệ, bóng mỡ, cầm bì hồ sơ, hé cặp mắt ti hí nhìn Trần như nhìn một gã dở hơi, giọng châm biếm:
- Ngoài chuyên môn ra, cậu còn có điểm mạnh gì không ?
- Cháu còn biết chơi đàn ghi ta, biên đạo múa...

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013

ĐÂU PHẢI CHUYỆN BA NGƯỜI

Câu chuyện này xảy ra đã lâu nhưng với tôi nó như một ám ảnh, dằn vặt, không thể nào quên được. Ngày ấy, tôi, Tứ và Linh học chung một lớp, chơi thân với nhau. Tứ người thấp, đậm, rắn chắc, vạm vỡ. Linh mảnh mai, trắng trẻo, dáng thư sinh, nhỏ nhẻ như con gái. Còn tôi, chẳng có gì đặc biệt ngoài chiều cao lí tưởng hơn một mét bảy và cái tính cần cù, ham học. Cả ba thân với nhau tới mức luôn có nhau trong bất cứ việc gì, từ chuyện chơi, việc học, và chưa bao giờ mất lòng nhau. Đám bạn bè cùng lớp thường gọi đùa chúng tôi là ba người lính ngự lâm. Năm học mười hai, chiều ngày cận tết, bộ ba chúng tôi đạp xe đi dạo trên phố nhìn thiên hạ rộn ràng sắm sửa. Mưa xuân lất phất. Mặc. Chúng tôi vẫn đạp xe tà tà trên các nẻo đường. Đến con hẻm vắng người gần nhà Tứ, trên vỉa hè, cả đám côn đồ hung hãn bao quanh một cô gái. Trông bộ dạng cô gái  thật tội nghiệp, run rẩy, mặt tái nhợt…Trong bọn, thằng đầu đinh mặt đầy sẹo cứ xáp lại sàm sỡ. Cả đám kia cười hô hố…Bọn này là đám thanh niên lêu lổng, quậy có tiếng ở thị trấn. Tứ ra hiệu cho chúng tôi dừng xe lại rồi bảo :
           Con nhỏ đó tên Phương Trang, ở cùng xóm với tao. Bọn mình phải cứu nó thôi.
     Tứ thả chiếc xe đạp lăn kềnh ra đường, chạy ngay tới, lấy thân mình che cho cô gái. Tôi và Linh dựng xe chạy tiếp ngay sau. Giọng Tứ rắn rỏi :
       Tụi bay không được cậy đông ăn hiếp một đứa con gái.
      Một thằng trong bọn trỏ thằng đầu đinh rồi cao giọng đáp
      – Ai biểu nó chảnh với đại ca tao ?
     Thằng đầu đinh trừng trừng nhìn Tứ :
         Bọn tao cứ ăn hiếp thì đã sao! Việc gì đến mày ! khôn hồn thì cút ! Muốn làm anh hùng cứu mỹ nhân hả? Này, tụi bay coi người hùng cứu mỹ nhân nè.
      Câu cuối cùng nó làm điệu bộ háy mắt, vung tay, giọng ngân dài ra mỉa mai. Cả bọn cười ầm lên khoái chí. Giọng Tứ đanh lại :
        Tao không đi. Tụi bay làm gì coi nào ?        
        Mày ngon hả ? Ngon này ! Thằng đầu đinh đấm thẳng vào mặt Tứ. Đảo người tránh, Tứ chộp ngay cổ áo nó quật một cái ngã nhào xuống đường. Nó lồm cồm đứng dậy xông vào tiếp nhưng lại dính ngay cú đá như trời giáng vào mặt lảo đảo té chúi đầu vào bờ rào. “ Nó có võ”, mấy thằng khác kêu lên. Cả bọn hung hăng toan nhảy vào đánh hội đồng. Tôi và Linh sấn tới đứng cạnh Tứ sẵn sàng ứng chiến. Chợt một thằng trong bọn kia chỉ vào Tứ kêu lên : “Nó là cháu lão Thập, võ sư dạy võ vùng này”. Cả đám ngớ người, nhìn nhau rồi liệu thế không xong, xúm lại, đỡ thằng đầu đinh đứng dậy. Thằng đầu đinh miệng văng tục, chửi nhì nhặng nhưng chân rảo bước, dẫn bọn đàn em chuồn thẳng. Tứ quát theo :
       Tụi mày còn bắt nạt con nhỏ này nữa, tao không tha đâu, nghe chưa !

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

Dăk Sơro – Tình yêu của tôi

       Tôi thức dậy hơi muộn. Súc miệng đánh răng xong, tôi bước vào phòng khách. Vợ chồng mộc ngồi chờ sẵn với bữa sáng bày trên bàn: đĩa thịt cheo rừng, nồi cháo nóng nghi ngút khói. Mộc cười xuề xòa:
- Đặc sản miền núi đấy. Biết cậu lên, bok Hua đem biếu.
- Bok Hua ! Bok vẫn khỏe mạnh chứ ?
       - Vẫn khỏe, vợ Mộc vừa múc cháo ra chén vừa nói, anh vẫn còn nhớ Bok à?
       Tôi luống cuống:
- Nhớ, tôi dở quá, chưa đến chào bok.
Mộc nói:
       - Bok đi săn mới về hồi sáng sớm. Lúc nãy bok tới, thấy cậu ngủ ngon nên không cho tôi kêu dậy. Giờ bok vào rẫy rồi, cậu không gặp được đâu.
       Ngừng lại một lúc, Mộc tiếp:
       - Bok Hua nhắc đến cậu luôn. Người Bahnar quý ai, họ khắc vào trong lòng, khó có thể thay đổi được.
Bữa ăn sáng trôi qua nhanh. Vợ chồng Mộc đi dạy. Đứa con gái nhỏ đi nhà trẻ. Còn lại một mình, tôi nằm thừ trên chiếc ghế xếp. Ở Dăk Sơro, đang mùa hè, không khí buổi sáng se se lạnh. Lòng tôi tôi nao nao khi nhớ lại một buổi sáng như thế này cách đây năm năm, trong căn nhà sàn của bok Hua, Lan Nhi ngân ngần nước mắt khi tiễn tôi về xuôi :
- Đừng quên Dăk Sơro nghen anh !


Vai khoác cái xách nhỏ, tay cầm cây vĩ cầm, nhìn vào mắt Lan Nhi, tôi hứa như là hứa với chính mình :
- Anh sẽ trở lại.
Bok Hua đứng bên cạnh, vỗ vai tôi, thân mật :
- Mày về, bụng tao luôn nhớ mày. Dăk Sơro cất giữ lời hứa của mày.

Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

THƠ ĐÀO VIẾT BỬU



 


 Những trưa chim gù

Chim gù chùng võng mẹ đưa
Mái tre vọng tiếng cũng vừa lay nghiêng
Hời ơi! Đâu giấc bình yên
Thương con se sẻ ngoài hiên chàng ràng
Giờ qua giậu duối chín vàng
Ai ngờ bụi ớt đứng bàng hoàng cay.

Thứ Tư, 20 tháng 2, 2013

CHỮ NGHĨA


    Quan đốc học Cả Nghị dù đang cận ngày sát hạch học trò, chuẩn bị cho kì thi hương, vẫn sắp xếp công việc về làng Nam Hạ dự hội. Ngày hội năm nay có lễ rước thần. Vị thần tên Khiết, đỗ cử nhân, đến Nam Hạ mở trường dạy học. Đức độ, tài hoa của thầy Khiết nổi tiếng một vùng. Học trò cả tam Nam: Nam Hạ, Nam Trung, Nam Thượng; lục Ngãi: Ngãi Nam, Ngãi Bắc, Ngãi Tây… theo học rất đông. Bấy giờ, có tên Thậm, chánh tổng làng Ngãi Bắc, ngang ngược, gian ác. Hắn giàu tới mức chỉ riêng ruộng đất có tới hàng mấy trăm mẫu. Hắn cầu thầy địa lý giỏi dò long mạch, tìm chỗ đất tốt đào huyệt táng hài cốt cha hắn để mong vinh hoa, phú quí hơn. Xem xét hết đồng nọ, gò kia, thầy điạ lý  chọn được thửa đất mới vỡ hoang của một người dân Nam Hạ. Hắn dùng thủ đoạn chiếm đoạt thửa đất ấy. Thầy Khiết giúp người bị ức hiếp làm đơn kiện lên quan. Vụ kiện thất bại. Ít lâu sau, thầy đi thăm người bạn ở làng bên về, đám tay chân của tên Thậm chận đường gây sự đánh thầy đến chết. Thầy chưa vợ, không họ hàng thân thuộc. Cả Nghị cùng với các bạn đồng học lặng lẽ mai táng thầy trên một gò đất cao. Vụ án gây xôn xao một lúc rồi cũng bị quan trên dìm đi. Người làng không dám ho he nhưng ngậm ngùi thương tiếc. Họ đem bài vị thầy vào thờ trong đình như một vị thần làng. Hằng năm, nhằm vào ngày thầy qua đời, dân làng mở hội tại bãi đất rộng trước đình…Về dự hội  còn là dịp Cả Nghị gặp lại các bằng hữu ở làng. Những người sống đạm bạc với ruộng vườn, vui cùng cây cảnh, thơ phú. Ngày hội đã tàn. Người dự hội về hết. Ông thủ từ trải chiếc chiếu ra giữa sân đình. Cả Nghị và bằng hữu tiếp tục đối ẩm, luận bàn chuyện văn chương, thế sự... Cao hứng, Cả Nghị ứng khẩu ngâm mấy câu thơ: Bằng hữu tâm giao lưu vạn thuở. Chung đầy xin cạn men tình say. Ông Nhị Trần, người lớn tuổi nhất, từng trải việc đời cầm ly rượu nói:
    - Ý thơ Cả Nghị như tạc vào đá. Công danh chỉ là giấc phù hoa, đời người như bóng câu, mới đó mà điểm bạc mái đầu. Vì tình bằng hữu mãi mãi, ta cùng uống cạn chung này.
      Mọi người hưởng ứng nâng cao ly rượu… Trời về khuya. Trăng chênh chếch trời tây. Cả Nghị đã ngà ngà say. Người thủ từ dìu ông vào đình, đỡ nằm trên cái phản gụ kê ở góc phải nhà ngoài. Tiếng cười nói ngoài sân im ắng dần. Lúc này, Cả Nghị nghe vọng vào những âm thanh thân thiết của tiếng ếch ngoài đồng cùng với tiếng chim bay đêm xào xạc trên các tán lá cây. Ông thoáng nhớ lại thời ấu thơ cùng đám bạn nhỏ bẩy chim hoặc lội bì bõm trên các con mương làng úp cá…Tháng ngày đèn sách ở nhà thầy…Rồi giây phút hồi hộp nghe xướng tên tiến sĩ, được mặc triều phục làm lễ tạ ơn vua… Cả Nghị trở mình trên tấm phản, ông nhớ tới chữ nghĩa trên tấm biển của bằng hữu ở quê tặng trong ngày vinh qui bái tổ… 


     Những nét chữ cẩn xà cừ óng ánh. Khi được triều đình bổ nhiệm chức quan đốc học tỉnh, ông dời nhà vào thành cho tiện việc quan. Ông mang theo tấm biển treo trên bức vách trong thư phòng. Bước vào hoạn lộ, mấy mươi năm nếm đủ mùi vinh nhục... Mỗi lần mỏi mệt, nhìn tấm biển, lòng ông thường ấm lại… Ánh trăng gầy guộc nhuốm vàng khoảng sân trước đình…Vài chiếc lá xào xạc trên thềm… Gió thoảng lành lạnh… Ánh sáng ngọn nến leo lét… Bỗng một người mặc áo dài khăn đóng tiến vào. Thấy rõ mặt, Cả Nghị vội tụt ngay xuống phản, vòng tay thi lễ. Miệng ấp úng:
       - Con chào thầy.

VÔ ĐỀ


Thân tặng Vĩnh Bình
Nhẹ như làn gió thoảng
lướt qua chốn phù hoa
còn chút hương để lại
với đời không phôi pha
một chút hương thanh khiết
sáng trong giữa đời thường
đẹp như tình bằng hữu
mãi mãi đến vô thường

Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013

THẰNG NGẬT


Không biết từ lúc nào, ở làng Nam Hạ lưu truyền câu đồng dao “ Thằng Ngật mà gật cái đầu. Cả trời Nam Hạ lệ sầu chứa chan.” Câu hát ấy, thuở ấu thơ tôi đã từng hát khi cùng đám bạn nhỏ quần đùi, chân đất chăn bò trên một cái gò lớn đầu làng. Cuối gò, chỗ tiếp giáp dòng sông có một mô đất cao. Đầu mô đất có một cái bia khắc chữ Hớn. Cái bia ấy mới phục hồi lại, vì hồi chiến tranh, bom đạn cày xới chỉ còn cái đế bằng đá ong lởm chởm. Qua lời kể của các bậc cao niên, đây là nấm mộ của cử nhân Dương Điền. Cái chết Dương Điền có liên quan đến câu đồng dao mà không đứa trẻ nào lớn lên ở Nam Hạ lại không thuộc.
    

  Tôi đến từ đường họ Dương. Đó là một ngôi nhà cổ lá mái ba gian, nằm lọt thỏm trong khu vườn rộng cây lá um tùm. Người giữ từ đường là cụ Dương Nguyễn. Cụ tiếp tôi rất niềm nở. Cụ mời tôi ngồi trên tấm phản gỗ mun kê bên trái gian nhà thờ. Bàn thờ sạch bóng đặt nhiều bài vị theo thứ bậc. Tôi biết cụ từ lâu, trong các ngày tế lễ ở làng cụ thường được chọn là người tế chủ. Nhưng do cách biệt về tuổi tác, do bận rộn việc mưu sinh, tôi phải rày đây mai đó nên chưa có dịp nào cùng với cụ chuyện trò với nhau. Cụ Dương Nguyễn là người xuề xòa, dễ tính. Cụ rót nước trà vào hai cái tách bằng sứ để trên cái khay gỗ cẩn xà cừ, rồi vừa mời tôi, vừa cầm một tách kề lên miệng nhấp một ngụm. Chờ cụ đặt tách trà xuống khay, tôi gợi chuyện. Cụ có vẻ hào hứng khi kể về những sự việc xảy ra cách đây hàng trăm năm ở làng. Những sự việc mà chỉ có người cả đời gắn bó máu thịt với làng như cụ mới lưu giữ mãi trong tâm khảm. Tôi hỏi về cử nhân Dương Điền, cụ nhỏ nhẹ : 

HOANG TƯỞNG



Quán về khuya thưa khách, tôi ghé vào chọn một bàn trống bên cửa sổ. Cô tiếp viên tiến lại :
    - Anh dùng gì?
    - Một ly cà phê đen.
    Cô tiếp viên đi khuất sau quầy bán. Tôi đổi lại tư thế ngồi thoải mái. Mấy đêm nay, vào giờ này, tôi thường tới đây thư giãn ít phút. Tổng biên tập phân công tôi đến thị trấn Bình Giảng viết về vụ tiêu cực xảy ra tại công ty xây dựng X. Công việc hết sức căng thẳng. Ngày đi thu thập tư liệu, đêm cắm cúi viết. Tôi thích đến cái quán nhỏ này. Cảnh bài trí thật đơn sơ, vài chậu cây cảnh, mấy bóng đèn màu dịu dàng… Nhưng hấp dẫn với tôi ở chỗ những bài hát trữ tình từ giàn âm thanh tương đối tốt. Đây là những bài tôi yêu thích nhất hồi còn học trường cao đẳng sư phạm, quãng đời đáng nhớ của tôi. Bởi vậy, nhân một lần có việc đi ngang qua, tiếng nhạc dìu dịu ấy đã kéo tôi vào quán.
    - Sao ngồi một mình thế này?
    Tiếng phụ nữ nói rất gần. Một thiếu phụ tự nhiên kéo ghế ngồi trước mặt tôi. Cách ăn mặt kín đáo và nụ cười đôn hậu đã làm cảm giác bực bội vì sợ quấy rầy đường đột nhanh chóng tan biến. Người phụ nữ tôi đã thấy loáng thoáng mấy lần khi đến quán ấy.
 - Hình như cô là chủ quán? Tôi hỏi. Thiếu phụ gật đầu rồi lại cười:

    Ngỡ ngàng, tôi nhìn kỹ, ngờ ngợ… Nụ cười… Đôi mắt… Nét đẹp chưa tàn phai trên gương mặt qua tuổi xuân thì. Có thể nhầm lẫn được chăng? Tôi kêu lên.
    - Cẩm Chi ! Có phải là Cẩm Chi không? - Đàn ông mau quên thật, nhưng rất mừng anh vẫn còn nhận ra.


    - Cẩm Chi mở quán ở đây lúc nào? Đã ổn định cuộc sống ở thành phố rồi mà.    
    Lời tôi nói như vô tình chạm vào nỗi niềm thầm kín trong lòng. Cô lắc đầu, dáng vẻ ngao ngán:

Thứ Hai, 18 tháng 2, 2013

TRỐNG VẮNG




Những vần thơ  bạn hữu được Vĩnh Bình viết gửi về từ Sài Gòn, có đọc mới thêm hiểu về anh trong những ngày xa xứ


Đã mấy hôm rồi con chim sẻ không đến đậu trước hiên nhà gọi bạn.
Vạt nắng sớm mai cũng qua mau lòng ta thêm trống vắng.
Bay về đâu hõi chim ?
Vội vàng chi hỡi nắng ?
Cho mùa thu phôi pha.
Cho Chiều vàng trút lá.
Ta một mình đong đếm những vui buồn khi trời đã sang đông. 

MỘT THỜI ĐỂ NHỚ



  
          Trong cuộc đời của mỗi con người, ai cũng có những kỉ niệm đẹp lưu giữ mãi trong lòng . Với chúng tôi, ba năm đèn sách dưới mái trường trung học phổ thông An Nhơn 1 đã để lại bao nhiêu kỉ niệm không thể mờ phai. Và cũng chính từ mái trường thân yêu này, một ngày mùa hè năm 1979, chúng tôi chia tay nhau, tạm biệt thầy cô giáo, tạm biệt mái trường, bỏ lại phía sau cái thời tuổi trẻ hồn nhiên vụng dại để bước vào cuộc đời rộng lớn. Từ đó, mỗi người một phương lo tạo dựng sự nghiệp. Người ra Bắc, kẻ vào Nam, người lên Tây Nguyên, người đi du học nước ngoài…Cũng có người gắn bó với quê nhà với nhiều ngành nghề khác nhau. Nhưng chúng tôi vẫn hướng về mái trường xưa với một tình cảm thân thương.    
          Còn nhớ, thế hệ cựu học sinh 79 bước vào trường năm 1976, một năm sau ngày miền nam được giải phóng. Cả huyện An Nhơn bấy giờ chỉ có một trường trung học phổ thông duy nhất. Bởi vậy, bạn học cùng lớp ở rải khắp các xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Có đứa ở khu đông Nhơn Hạnh, Nhơn Phong ; có đứa ở cánh tây Nhơn Phúc, Nhơn Lộc; có người ở cánh bắc Nhơn Thành, Đập Đá… Đây là thời điểm đất nước vừa trải qua cuộc chiến tranh ác liệt kéo dài, lại thêm thời bao cấp đầy khó khăn. Ngày ấy, hầu hết chúng tôi đến trường trên những chiếc xe đạp cà tàng. Áo quần may bằng thứ vải rẻ tiền được phân phối theo tiêu chuẩn xã viên hợp tác xã hoặc tem phiếu cán bộ công nhân viên nhà nước. Trường lớp tuềnh toàng, sách vở thiếu thốn, cả tổ chỉ có vài bộ sách giáo khoa cũ mượn ở thư viện, chuyền tay nhau mà đọc. Thời chúng tôi học chưa có công nghệ thông tin hiện đại, không biết game online, không phim ảnh Hàn Quốc, không hát karaoke…Nhưng chúng tôi có cả một tình yêu và lẽ sống cao cả. Yêu trường, yêu lớp, yêu quí bạn bè, cả những mối tình ngây thơ, trong sáng tuổi học trò, yêu kính thầy cô giáo tuy cuộc sống quá đạm bạc nhưng vẫn hết lòng tận tụy với học sinh …
                      alt               
         

Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2013

LŨ MUỘN

Ông Tự uể oải vươn vai một cái rồi chậm rãi đi qua cửa nhà chòi ra bãi cát mé sông. Cát nóng bỏng lạo xạo dưới bàn chân trần. Ông lội xuống dòng nước chảy lờ đờ, tới chỗ ngang ống quyển, khom người chúm hai bàn tay vục một bụm nước úp vào mặt. Rồi một bụm nữa. Nước nhỏ giọt trên chòm râu, nhỏ xuống bộ ngực trần đen đúa, xương xẩu. Nước mát làm ông thấy khoan khoái. Ông ngước nhìn lên phía tây, nơi có những ngọn núi xanh thẳm, lững lờ chòm mây trắng, miệng lẩm bẩm :
     - Qua tiết lập đông rồi mà chẳng thấy động tĩnh gì. Chừng nào ông trời mới chịu đổ nước về.
     Ông vừa lểu thểu về chòi vừa nghĩ tới bữa cơm chiều. Cả tháng nay ông phải chắt chiu, tính toán từng bữa ăn, sao cho cầm cự tới khi lũ về. Nước cạn kiệt. Trên khúc sông quen thuộc, ban ngày, ông thả lưới, quăng chài, lặn bắn miệt mài, ban đêm, bơi sõng đi soi đến bét mắt mà vẫn không đủ đắp đổi bữa ăn. Con sông ngày càng ít cá. Đã vậy, có kẻ còn dùng xung điện. Rồi thuốc cỏ, thuốc trừ sâu từ các chân ruộng chảy xuống. Con cá nào sống sót, trốn bặt vào hang, hốc trong các hầm chảo gai góc…
alt
     Ông Tự mong lũ đến mỏi con mắt. Vì khi lũ về, cá tràu, rô, trê … trồi ra vẫy vùng. Lại thêm cá trôi, diếc, chép, mương, chốt…ở các lòng hồ, khe suối chốn đại ngàn xuôi theo con nước bạc. Cá ở vùng hạ bạn ngược dòng... Chỉ cần nhìn luồng nước chảy, chọn vị trí thả nhá kéo, có khi, chỉ một lát, lờ cá đã đầy nóc. Nước rặt là mùa thu hoạch. Tha hồ bủa lưới. Cá no mồi béo núc. Tối đến, chỉ cần một trận mưa, ếch giao hoan kêu ồm ộp khắp cánh đồng. Chịu khó đội đèn bin đi soi một chặp, cũng kiếm được kha khá.
      

Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

GÓC QUÊ ÊM ĐỀM


Ông Hạn rất thích chơi cây cảnh. Thú chơi này đã thấm vào máu ông. Bởi vậy, từ lúc về hưu, ông luôn quẩn quanh bên những chậu cây cảnh trong vườn. Khi cùng bạn bè chén tạc chén thù, ai khơi đề tài này, ông rất hào hứng, nói không biết chán. Không ít lần ông nói như thể muốn chia sẻ niềm đam mê của mình mặc dù có lúc người nghe không có hứng thú muốn nghe. Vợ ông đã mất. Đứa con trai độc nhất là Lập Thành đang làm ở một công ty lớn trong Thành phố Hồ Chí Minh. Nó quyết chí lập nghiệp ở trong đó. Thỉnh thoảng, vợ chồng con cái đưa nhau về thăm ông vài hôm. Ông tự nhủ, Lập Thành đã trưởng thành, cứ để nó tự quyết định cuộc sống. Ông không buộc nó phải về ở với ông. Vợ nó mở cửa hàng bán đồ trang trí nội thất, thu nhập cũng khá. Lần về gần nhất, Lập Thành nói với ông :
        - Ba ở ngoài này, con không yên lòng. Tuổi già như ba cần có người chăm sóc. Khi tối lửa tắt đèn lỡ xảy ra chuyện gì, một mình ba thì biết làm sao ? Con tính thế này, ba vào ở với vợ chồng con. Con sẽ lo cho ba đầy đủ.