Hạ
và tôi quen nhau rất tình cờ. Tôi tổ chức một cuộc triển lãm ảnh nghệ thuật ở
Nhà văn hóa trung tâm thị xã. Gần bốn giờ chiều buổi triển lãm cuối, người xem
đã hết, tôi loay hoay thu xếp đồ đạc chuẩn bị ra về thì bất ngờ một đôi nam nữ
ghé vào. Chàng trai đó là Hạ. Cô gái tên Quỳnh Như, bạn gái của anh. Cả hai tíu
tít bên nhau. Hạ dẫn Quỳnh Như đến nhìn từng bức ảnh. Có tấm anh lướt qua. Có
tấm, anh dừng lại, ngắm nghía, bình phẩm. Quỳnh Như chăm chú nghe, thỉnh thoảng
gật đầu tán đồng. Tôi lặng lẽ quan sát. Hạ tóc cắt ngắn chững chạc, nai nịt gọn
gàng. Quỳnh Như đẹp tự nhiên, không phấn son, cười duyên dáng với hai cái lúm
đồng tiền trên má. Mái tóc đen dài buông xõa ngang lưng, vài lọn tóc lòa xòa
trên vầng trán trắng mịn. Kiểu tóc quen thuộc của các cô gái ở thập niên tám
mươi của thế kỉ trước… Xem xong một lượt, cả hai tới chỗ tôi, Hạ khẽ hỏi:
- Anh là tác giả của
những tấm ảnh trưng bày trong phòng triển lãm này?
- Đúng vậy. Tôi gật
đầu.
Tôi mời cả hai ngồi
ghế đối diện, cầm bình trà rót vào mấy cái tách bằng sứ để sẵn trên bàn.
- Mời hai bạn dùng
nước trà.
Quỳnh Như nhỏ nhẹ:
- Dạ, cảm ơn anh.
Hạ lên tiếng:
- Những khoảnh khắc
cảnh vật, con người anh chộp được trong các tấm ảnh đều thể hiện một chủ đề
riêng rất ấn tượng. Nhưng…
Hạ ngập ngừng như có
điều khó nói. Suốt mấy ngày triển lãm, tôi nhận được toàn là những lời khen,
những lẵng hoa tươi cùng lời chúc tụng của bạn bè, đồng nghiệp. Những lời nói
lặp đi lặp lại, đôi lúc mòn sáo, có khi chẳng ăn nhập gì tới chuyên môn. Nghe
riết thành quen. Tôi hờ hững đón nhận cùng với cái bắt tay chiếu lệ. Câu nói bỏ
dở của Hạ tạo cho tôi sự tò mò. Anh muốn góp ý những tấm ảnh của tôi chăng? Tôi
cười khích lệ:
- Tôi rất muốn nghe
ý kiến của anh.
Và Hạ nói, chậm rãi,
rõ ràng. Tôi đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác. Anh nói về ánh sáng, màu sắc,
bố cục, về cái thần một số tấm ảnh… Càng nói, Hạ càng thể hiện sự am hiểu tinh
tường như anh là người trong nghề vậy. Những điểm tôi chưa đồng ý, anh phản
biện rất có lý. Quỳnh Như vẫn ngồi im bên Hạ. Cô một nửa nghe còn một nửa đang
nghĩ ngợi về điều gì đó…
Cuộc trò chuyện với
Hạ hết sức thú vị. Tôi lưu số điện thoại của anh. Lúc tiễn anh và Quỳnh Như ra
về, tôi nắm tay anh thật chặt
Về sau, tôi mới biết
Hạ đã tốt nghiệp trường Đại học nghệ thuật Huế ngành hội họa. Thảo nào, anh
nhận xét ảnh của tôi sâu sắc đến thế. Hạ hai mươi lăm, kém tôi bảy tuổi. Dần
dần, chúng tôi thân thiết với nhau. Khi thì anh đem bức tranh mới vẽ đến cho
tôi góp ý. Khi thì anh chở tôi trên chiếc xe máy cà tàng lặn lội tới những nơi
tôi cần để chụp ảnh. Rảnh việc, gọi nhau ra quán cà phê quen thuộc ở ngoại ô
thị xã, nhâm nhi li cà phê đắng mà nói chuyện bao đồng… Tối hôm đó, Hạ bất ngờ
đội mưa đến nhà tôi. Trông bộ dạng thiểu não của anh tôi chắc là đã xảy ra
chuyện không hay. Ngồi chưa ấm chỗ, Hạ nói ngay:
- Em và Quỳnh Như
chia tay rồi!
- Sao lại đến mức
như vậy? Tôi hỏi.
- Không đến được với
nhau, gieo neo chỉ làm khổ thêm mà thôi.
Hạ chậm rãi kể cho
tôi nghe mối tình anh và Quỳnh Như, những trắc trở không thể vượt qua. Nghe
xong câu chuyện, tôi không biết làm thế nào để chia sẻ với anh, chỉ biết im
lặng mà ái ngại cho anh… Hạ ngồi thêm một lát nữa, nói vài câu bâng quơ chẳng
ăn nhập vào đâu rồi đột ngột đứng dậy chào tôi ra về. Anh đi ra cửa, bước xuống
cầu thang. Tiếng giày lộp cộp trên bậc cấp bằng gỗ. Tôi ra ban công. Mưa vẫn
rơi. Cơn mưa dài lê thê. Không gian ẩm ướt, mùi hơi nước lạnh lẽo. Dưới ánh
sáng vàng vọt từ những ngọn đèn đường, bóng Hạ lầm lũi đi trên vỉa hè rồi khuất
sau khúc quanh. Tôi trở vào, gieo mình xuống chiếc ghế nệm dài, gối đầu lên
thành ghế mà nghĩ ngợi…
Hạ và Quỳnh Như quen
nhau đã lâu. Quỳnh Như học xong trường Cao đẳng Tài chính kế toán. Cảnh nhà neo
đơn, cô không tìm việc làm mà về trông coi cửa hàng tạp hóa của gia đình nằm ở
mặt tiền con đường trung tâm thị xã. Nhà Quỳnh Như khá giả, thuộc hàng gốc gác
bề thế. Ba cô là người nệ cổ, coi trọng lối sống gia đình mẫu mực, nền nếp, lễ
nghi thời xưa. Trong các lễ hội dân gian, cưới xin…, ông đến dự, đầu đội khăn đóng,
mình diện chiếc áo dài thâm thẳng nếp. Ông rất gia trưởng. Vợ con trong nhà
nghe theo ông một phép, không dám trái ý. Bởi thế, bà con xóm làng xầm xì, dị
nghị, lời ấy tới tai ông:
- Ông ta biết bây
giờ là thời nào không? Cuộc sống có như thưở trước đâu. Cổ hủ vừa vừa thôi chớ.
Trên bảo dưới vâng nhưng dưới nói đúng thì trên cũng phải lắng nghe. Bọn trẻ
bây giờ nhiều đứa giỏi ra phết đấy.
Người mạnh miệng thì
nói thẳng:
- Ông nghĩ kĩ mà
coi. Thế giới bây giờ rộng lớn lắm, không chật chội như trong cái đầu ông. Thì
đấy, chuyện trời đất đâu đâu, chỉ cần Enter một cái là hiện ra rõ ràng trước
mắt. Ông sống thoáng lên cho vợ con nó nhờ.
Nghe thì cứ nghe,
ông không tranh cãi, nhưng cũng không thay đổi cách sống của mình. Biết rõ như
thế, khi cùng Quỳnh Như tính chuyện hôn nhân, việc tất yếu phải đến, Hạ tỏ ra
ngần ngại. Anh lần lựa mãi. Nhưng, cũng không còn cách nào khác, cũng đành phải
mạo muội một phen.
Ba Quỳnh Như ngồi
nghiêm nghị, lạnh lùng trước mặt Hạ. Vợ ông ngồi bên cạnh như pho tượng. Chờ Hạ
nói xong, ông trả lời rành rọt:
- Tôi đã nghe con
Quỳnh Như nhà tôi thưa chuyện. Tôi cũng muốn gặp anh để ba mặt một lời. Con gái
tôi chưa phải là cành vàng, lá ngọc để kén nơi chức trọng quyền cao, nhưng
không đến nỗi thấp hèn để về làm con dâu hầu hạ cho kẻ nát rượu be bét như cha
anh. Tôi không thể gả con gái tôi cho anh được. Từ nay, tôi muốn anh phải chấm
dứt mối quan hệ với nó. Anh đừng bao giờ bước chân đến nhà tôi nữa.
Nói xong mấy câu,
không đợi Hạ trả lời, ông đứng dậy đi vào nhà trong. Chờ chồng khuất sau cánh
cửa, má Quỳnh Như ái ngại nhìn Hạ:
- Tính ổng thẳng
thắn, nói cái gì thì dứt dạt cái đó, không ai lay chuyển được. Thôi, cháu quên
con Quỳnh Như đi.
Hạ đi qua cánh cổng
sắt nhà Quỳnh Như với tâm trạng nặng nề. Anh có cảm giác từ một góc khuất nào
đó, cô buồn rầu dõi theo anh. Lòng Hạ quặn thắt… Cũng chỉ vì ba của anh. Kẻ nát
rượu. Không riêng gì ba Quỳnh Như, những người quen biết ở cái thị xã này đều
nhìn ba anh bằng con mắt coi thường. Hạ rất khổ tâm về điều đó. Nhưng biết làm
sao được…
Nhà Hạ nằm sâu trong
con hẻm nhỏ. Một ngôi nhà mái ngói ba gian cũ kĩ. Cả ba gian đều hướng mặt ra
cái sân nhỏ phía trước. Gian trên để thờ phụng, mé bên phải kê một cái phản gỗ
để ba anh nghỉ ngơi. Gian giữa là phòng khách. Gian cuối là phòng riêng của Hạ.
Khi Hạ mới lên mười, má anh bị bệnh mất. Trong nhà chỉ có hai
cha con. Ba anh làm nghề đạp xe ba gác mướn. Ông mắc chứng nghiện rượu. Như đã
thành thói quen, ngày nào cũng vậy, sáng sớm đạp xe ra khỏi nhà, gần tối mới
về, lúc về thường say xỉn, mắt lừ đừ, ngật ngưỡng trên yên xe. Ông lóng ngóng
đạp xe vào góc sân, rồi khó nhọc bước xuống, chân nam đá chân chiêu loạng
choạng đi vào nhà, vừa đi vừa vung tay hát một câu cải lương trong vỡ “Giọt máu
chung tình” thịnh hành những năm 70 của thế kỷ trước, lời hát vấp váp: “Biên cương lá rơi… em… Thu Hà em ơi. Đường
dài... hức... mịt mù em không… hức… đến nơi…” Không ít lần, ông say khướt
tới mức bạn nhậu chở về, Hạ ra đỡ. Ông gạt tay anh ra, miệng cười méo xệch: “Ba
đi được”. Nhưng chân bước không nổi, ông quờ quạng bò lên bậc cửa, vào trong
nhà, ông lăn quay ra nền xi măng nằm queo mà ngủ...
Uống rượu và nói
khoác là hai người bạn đồng hành với nhau. Khi rượu vào đến độ rần, ông bắt đầu
huyên thuyên. Có chuyện ông thêm thắt vào. Có chuyện ông tưởng tượng ra. Ông
nói khoác không vì mục đích đề cao mình. Và cũng không nhằm vào cái gì cả.
Chẳng qua là ông thích nói như thế. Tật nói khoác làm người nghe khó chịu. Bạn
nhậu châm chọc. Mặc. Người nghe xấu tính cáu gắt. Ông cười. Cũng chính vì tật
nói khoác đó, mọi người càng đàm tiếu về ông hơn các bợm rượu khác… Ngay từ lúc
còn học tiểu học, có lần, Hạ khóc sướt mướt khi mấy đứa bạn học cùng lớp giễu
cợt. Chúng nhăn mặt, nhíu mày, uốn mình, múa máy chân tay, nhại giọng diễn tả
điệu bộ ba anh chúng gặp tình cờ gặp tại một hàng rượu vỉa hè. Khi đã đủ hiểu
biết, chờ ba anh tỉnh rượu, Hạ tỉ tê trò chuyện khuyên nhủ hết lời… Nghe Hạ
nói, ông im lặng, trầm ngâm, nét mặt tư lự như đang cố đè nén một cái gì ở
trong lòng. Sau đó, ông bỏ uống được vài hôm. Hạ chưa kịp mừng ông lại chứng
nào tật nấy. Hạ lắc đầu ngao ngán. Ba anh cứ ngụp lặn trong rượu, vung tay nói
khoác và càng trở nên thảm hại hơn dưới con mắt của mọi người. Anh chua chát
ngẫm nghĩ: “Tại sao ba anh không được như những người cha khác trong đời, những
người đàn ông bảnh bao, sang trọng, chiều chiều dẫn vợ con đi dạo trên phố,
thỉnh thoảng ghé vào cửa hàng nào đó mua sắm, ăn uống, tiếng cười nói rộn
ràng…”
Bẵng đi gần ba năm,
tôi không nhận được tin tức gì về Hạ. Chỉ vì điều kiện sinh sống, tôi vào Thành
phố Hồ Chí Minh làm phóng viên ảnh cho một tờ báo. Những ngày mới vào, tôi gọi
điện, nhắn tin thăm hỏi. Rồi bao nhiêu thứ bề bộn cuốn hút, nhiều quan hệ mới
được thiết lập, thì giờ của tôi càng ít ỏi, cuộc trao đổi của chúng tôi qua
điện thoại thưa dần rồi dứt hẳn. Đôi lúc, còn lại một mình, khi không còn vướng
bận điều gì, tôi lại nhớ tới anh. Không biết mối quan hệ giữa cha con anh tiếp
diễn ra sao? Tình yêu của anh và Quỳnh Như kết cục như thế nào? Có lối thoát
nào cho anh không? Nhưng tôi ngại hỏi thăm anh vì sợ biết đâu mình vô tình khơi
dậy nỗi buồn mà Hạ đang cố quên. Cho đến một hôm, tôi về quê dự họ đám cưới một
đứa cháu. Việc cưới hỏi xong xuôi, trời xâm xẩm tối, tôi đến thăm Hạ. Vẫn ngôi
nhà cũ, đồ đạc bày biện không có gì thay đổi. Gặp tôi, Hạ rất mừng:
- Tưởng không còn
gặp anh nữa. Anh về mấy hôm? Chừng nào vào lại trong đó?
- Vài bữa. Sáng mai
đi.
Cách mới mấy năm mà
trông Hạ đã khác đi nhiều. Gò má nhô cao xương xẩu, mắt thâm quầng, hàng ria
lún phún trên mép.
- Trông bộ dạng chú,
anh có cảm giác như xa chú đã mười năm.
Hạ cười gượng gạo:
- Em già đi phải không?
Nhiều người nhận xét về em như vậy. Anh vào nhà! Hạ giục giã.
Tôi theo Hạ vào
phòng khách. Trong phòng treo đầy tranh. Có bức đã hoàn thiện. Có bức mới là
phác thảo. Mắt tôi dán vào bức tranh vẽ bán thân một thiếu nữ treo ở vị trí
trang trọng. Quỳnh Như! Tôi thảng thốt kêu lên. Nổi bật trên cái màu nền tối là
gương mặt sáng đẹp rạng ngời, thanh khiết. Bức tranh thật ấn tượng. Giọng Hạ
ngậm ngùi:
- Lần cuối gặp nhau,
cô ấy khóc tức tưởi không nói được lời nào. Em biết, cô ấy đau khổ không kém gì
em. Hôm đám cưới cô ấy, em không đến dự nhưng có gửi quà mừng. Rồi làm bộ điệu
vui vẻ, Hạ lảng sang chuyện khác. Thôi, nhắc làm gì chuyện ấy nữa, anh kể đi,
thời gian qua anh sống thế nào?
Tôi nói về nghề
nghiệp tạo cho tôi cơ hội đi đây đó, về những chuyện thú vị nơi đất lạ xứ
người… Còn anh, anh chỉ nghe, thỉnh thoảng chêm vào một câu cho có. Điều này
thật lạ. Trước đây, Hạ đâu có như thế. Tính anh vốn sôi nổi kia mà! Tôi nhìn ra
ngoài sân. Chiếc xe ba gác nằm ở cái góc quen thuộc. Ba anh đã về. Nãy giờ sao không
nghe tiếng ông. Hồi ấy, mỗi lần tôi tới nhà, dù chếnh choáng, ông vẫn bước ra
phòng khách, cười hềnh hệch, vỗ vai tôi nói vài câu xỗ xã. Tôi rất vui với sự
thân thiện mộc mạc đó. Tôi hỏi:
- Ba chú không có ở
nhà sao?
Gương mặt Hạ bỗng sa
sầm lại. Có chuyện bất thường gì đây. Hạ mời tôi lên nhà trên. Vừa bước qua
ngạch cửa, tôi sững sờ không tin vào mắt mình nữa. Đập ngay vào mắt tôi là di
ảnh ba anh đặt trên bàn thờ.
- Ba em mất hơn một
năm rồi.
Bấy lâu nay, tôi vẫn
thầm mong một kết thúc có hậu cho Hạ. Nào ngờ, thêm một lần nữa, phải chứng
kiến nỗi đau đời của anh. Tôi xin phép anh, bước tới bàn thờ, thắp nén hương.
Tấm hình ba anh chụp hồi còn trẻ, đôi mắt giống hệt đôi mắt anh. Đôi mắt người
đã khuất hay đôi mắt mang tâm trạng dày vò của Hạ làm tôi xót xa, ngậm ngùi. Hạ
lại chỗ chiếc phản. Một cái hộp gỗ hình chữ nhật để sẵn nơi đầu phản. Anh bưng
cái hộp rồi mời tôi trở lại phòng khách. Hạ đặt cái hộp lên bàn, giọng buồn
rầu:
- Mất Quỳnh Như,
lòng em hết sức trống trải, người lúc nào cũng thấy chênh vênh, buông trôi,
không phương hướng. Em không thiết bất cứ chuyện gì. Ba lo lắng hỏi, em cáu
gắt: “Mặc con! Ba giúp được gì cho con mà hỏi”. Ba buồn. Càng uống rượu. Nhiều
trận say bí tỉ. Có khi nằm vất vưởng trên ghế đá công viên, cái nón cời úp lên
mặt... Cho đến một hôm, giữa buổi chiều ba đạp xe về nhà. Mặt tái nhợt, nhăn
nhó. Tay ôm bụng. Chưa kịp vào nhà, ba ói ra
máu tươi. Máu chảy xuống ngực đỏ cả chiếc áo. Em đưa gấp ra bệnh viện. Bác sĩ
chẩn đoán bệnh loét dạ dày mãn tính. Bác sĩ còn cho biết bệnh đã phát từ lâu.
Thì ra, ba cố giấu em. Chắc vì thái độ tàn nhẫn của em…
Nhìn nét mặt rầu rĩ
của Hạ, tôi càng tội nghiệp cho anh. Đành rằng, đời người, cũng có lúc gặp phải
nghịch cảnh đau lòng. Nhưng những gì mà Hạ đã chịu đựng thì thật quá sức của
anh. Mắt Hạ đỏ hoe. Giọng anh xúc động:
- Hồi ba còn sống,
một đêm khuya, em thức giấc, nhà trên còn sáng điện, bên ngoài mưa gió ào ào.
Em rón rén bước lên, ba ngồi như cái bóng bên bàn nước. Trước mặt là cái hộp
này. Ba nhẹ nhàng mở hộp, lấy ra một cuốn sổ. Ba hí hoáy viết vào sổ. Nét mặt
lạ lắm. Chưa bao giờ em nhìn thấy nét mặt ba như lúc đó… Sau khi ba mất, em tìm
thấy cái hộp trong tủ đựng áo quần của ba. Trong hộp, vẫn còn nguyên những di
vật mà ba một đời ấp ủ.
Hạ mở nắp hộp, cầm
ra sợi dây chuyền vàng mặt ngọc, tập album ảnh và một
cuốn sổ đã cũ. Hạ nói tiếp:
- Sợi dây chuyền này
là kỉ vật ba tặng má ngày đám cưới. Những tấm ảnh ba má chụp
lưu giữ thưở hạnh phúc bên nhau. Hạ cầm cuốn sổ lên đưa cho tôi, anh đọc đi, cả
đời ba em được ghi lại trong đó.
Mở cuốn
sổ, những dòng chữ quệch quạc, chắp nối, không giống như nhật kí. Bởi chủ yếu
là những dòng tâm sự: “Má thằng Hạ ơi, tui hứa với má nó không yêu thương ai
nữa. Tui ở vậy nuôi con mình khôn lớn. Má nó yên tâm nơi suối vàng”. Đoạn khác:
“Tui uống rượu làm khổ con. Nhưng nhớ má nó, tui buồn. Tui không có cách nào
khác, chỉ biết quay cuồng trong men say”. Một đoạn nữa: “Thằng con mình đã
thành tài rồi. Hôm nay nó lãnh bằng tốt nghiệp đại học. Má thằng Hạ sống khôn
thác thiêng phù hộ cho con có công ăn việc làm đỡ cực nhọc như tui…”.
Gấp
cuốn sổ lại, lòng tôi bồi hồi xốn xang. Hạ nghẹn ngào:
- Má
mất, dù còn trẻ, ba dửng dưng với bao ánh mắt đón đưa. Ba không tục huyền, thân
gà trống nuôi em đến ngày trưởng thành. Ba đã giữ đúng lời hứa đó. Em đã hiểu
ra, người cha thảm hại ngập ngụa trong những cơn say triền miên lại là người
sống chung thủy nghĩa tình nhất trên đời. Anh biết không? Giây phút sắp lâm
chung, ba ứa nước mắt nói: “Ba biết, vì ba mà con đổ vỡ hạnh phúc… Ba có lỗi
với con… Ba không yên lòng nhắm mắt...”. Trời ơi! Sự ích kỉ như đám mây mù che
lấp mắt em để không nhận ra ba là
người yêu thương em vô bờ bến. Ba xuôi ngược tảo tần
chăm lo cho em đủ mọi thứ, từ hộp bút, bộ cọ đến giàn vi tính cấu hình mạnh đắt
tiền để vẽ hình họa mà không phải người sinh viên nào trường mỹ thuật mơ ước
đều có được... Ba gò lưng căng sức chở thêm hàng, cuốc thêm chuyến xe đêm, đổ
biết bao mồ hôi, nước mắt kiếm từng đồng gom góp mua cho em. Khổ tới đâu ba
cũng cắn răng chịu không một lời than vãn.… Vậy mà em lại nghĩ
không hay về ba, đã đối xử lạnh nhạt với ba, cáu gắt ba: “Mặc con! Ba
giúp được gì cho con mà hỏi”. Suốt đời này, em không bao giờ tha thứ cho mình
khi nói câu nói đó. Em thật là kẻ tồi tệ! Giá như em còn có cơ
hội chuộc lại lỗi lầm của mình! Em sẵn sàng đánh đổi tất cả mọi thứ để nhìn
thấy ba chiều chiều ngật ngưỡng trên chiếc xe ba gác trở về nhà và được nghe ba
hát câu cải lương quen thuộc, não nề:“Biên
cương lá rơi Thu Hà em ơi…”
Hạ cúi mặt xuống,
hai tay ôm lấy đầu. Bờ vai anh rung rung. Tôi đứng dậy, bần thần, lặng lẽ đi ra
cửa. Tôi đi gấp gáp như trốn chạy. Có một điều tôi chưa kể cho Hạ nghe, và có
lẽ, không bao giờ tôi kể. Đây là lí do tôi để tâm nhiều câu chuyện về người cha
của anh. Bởi Hạ ơi! Cũng như anh, tôi hiện đang có một người cha như thế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét